Từ năm 2021, Bộ luật Lao động
năm 2019 có hiệu lực quy định chi tiết nhiều quyền lợi riêng dành cho lao động nữ mang thai, nhằm đảm bảo sức khoẻ cho nhóm đối tượng
này.
Ngoài
được hưởng những quyền lợi tương ứng trong chế độ thai sản của Luật Bảo hiểm xã
hội 2014 như: Nghỉ khám thai được hưởng trợ cấp; Được nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản khi sẩy thai, thai chết lưu… lao động nữ mang thai sẽ được hưởng những
quyền lợi theo Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 cụ thể như sau:
1. Không bị xử lý kỷ luật
lao động
Điều
122 BLLĐ năm 2019 quy định người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật đối
với người lao động đang trong thời gian mang thai; nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi
Do
đó, nếu lao động nữ mang thai vi phạm kỷ luật sẽ không bị xử lý. Tuy nhiên, hết
thời gian mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng thì lao động nữ vẫn
có thể bị xử lý kỷ luật do thời hiệu xử lý kỷ luật lao động có thể kéo dài (quy
định tại Điều 123 BLLĐ năm 2019).
2. Được đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động
Khoản
1 Điều 138 BLLĐ năm 2019, lao động nữ mang thai nếu tiếp tục làm việc sẽ có ảnh
hưởng xấu tới thai nhi và phải có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh thì có thể
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Trường
hợp này được coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp pháp. Khi đó, người lao động
sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc nếu đã làm việc thường xuyên cho người sử dụng
lao động từ đủ 12 tháng trở lên theo quy định tại Điều 46 BLLĐ năm 2019.
3. Không phải làm đêm, làm
thêm giờ, đi công tác xa
Căn
cứ vào Điều 137 BLLĐ năm 2019, lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ
tháng thứ 6 (nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) sẽ
không phải làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa.
Điều
này đồng nghĩa rằng, lao động nữ mang thai dưới 7 tháng hoặc dưới 6 tháng (đối
với công việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) vẫn có thể phải
làm đêm, đi công tác xa theo sự sắp xếp của người sử dụng lao động.
Tuy
nhiên, tại Điểm a Khoản 2 Điều 107 BLLĐ năm 2019, người sử dụng lao động chỉ được
sử dụng người lao động làm thêm giờ nếu người đó đồng ý. Vì vậy, lao động nữ
mang thai hoàn toàn có quyền từ chối làm thêm giờ.
4. Được nghỉ trước khi sinh
tối đa 2 tháng
BLLĐ
năm 2019 cho phép lao động nữ mang thai được nghỉ
thai sản trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi
trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1
tháng.
Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 139 BLLĐ năm 2019, lao động nữ mang thai được nghỉ
trước sinh tối đa không quá 2 tháng. Thời gian này sẽ được trừ vào thời gian
nghỉ thai sản.
5. Được chuyển công việc nhẹ
hơn hoặc giảm 1 giờ làm việc hằng ngày
Với
BLLĐ năm 2019, người lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hoặc đặc
biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới
chức năng sinh sản và nuôi con nếu mang thai và có thông báo cho người sử dụng
lao động biết thì sẽ được chuyển làm công việc khác an toàn hơn hoặc giảm 1 giờ
làm việc.
Lao
động nữ trong trường hợp này sẽ được làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn hoặc giảm
bớt 1 giờ làm việc hằng ngày mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích
cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi (căn cứ Khoản 2 Điều 137 BLLĐ
năm 2019).
6. Được tạm hoãn hợp đồng
lao động
Điều
138 BLLĐ năm 2019 quy định, lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở
khám chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới
thai nhi thì có quyền tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Khi
tạm hoãn hợp đồng, lao động nữ mang thai phải thông báo cho người sử dụng lao động
kèm theo xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh.
Thời
gian tạm hoãn sẽ do các bên tự thỏa thuận nhưng không ít hơn thời gian mà cơ sở
khám chữa bệnh chỉ định tạm nghỉ.
7. Không bị đơn phương chấm
dứt HĐLĐ
BLLĐ
năm 2019 cấm người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt
hợp đồng với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi
con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Nếu
lao động nữ bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì mang thai thì người sử
dụng lao động buộc phải nhận người lao động trở lại làm việc, đồng thời bồi thường
tổn thất về vật chất và tinh thần cho người lao động.
Trường
hợp sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động vì lý do có
thai, doanh nghiệp có thể bị phạt tiền lên đến 20 triệu đồng.
|